Flatsome Main Features
Sorry, no pages was found
Bối cảnh, cơ sở pháp lý và các nguyên tắc cơ bản của TCVN 9362:2012, đảm bảo người sử dụng hiểu rõ vai trò và các điều kiện tiên quyết không thể thiếu để áp dụng tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 9362:2012, với tên gọi đầy đủ là “Tiêu chuẩn thiết kế nền nhà và công trình” (tên tiếng Anh: Specifications for design of foundation for buildings and structures), là văn bản kỹ thuật cốt lõi điều chỉnh công tác thiết kế nền móng tại Việt Nam. Địa vị pháp lý của tiêu chuẩn được xác lập thông qua một quy trình ban hành chặt chẽ: do Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (thuộc Bộ Xây dựng) biên soạn, được Bộ Xây dựng đề nghị, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thẩm định, và cuối cùng do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố. Quy trình này khẳng định TCVN 9362:2012 là một quy định có tính pháp quy, là cơ sở để các kỹ sư, nhà thầu thực hiện thiết kế, thẩm tra và nghiệm thu, nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn cho công trình.
TCVN 9362:2012 không phải là một tiêu chuẩn được xây dựng hoàn toàn mới mà là kết quả của quá trình chuyển đổi từ tiêu chuẩn ngành cũ TCXD 45:1978, theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Việc tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc cho thấy TCXD 45:1978 về cơ bản là một văn bản được dịch từ tiêu chuẩn Liên Xô СНиП II-15-74, ban hành năm 1974, với một số điều chỉnh để loại bỏ các vấn đề nền móng không phổ biến tại Việt Nam.
Nguồn gốc này không chỉ là một chi tiết lịch sử, mà còn là yếu tố quyết định đến cấu trúc, phương pháp luận và cả những thách thức trong quá trình áp dụng tiêu chuẩn ngày nay. Các tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên Xô trong giai đoạn trước kỷ nguyên máy tính cá nhân được xây dựng với triết lý phù hợp với tính toán thủ công. Điều này dẫn đến một cấu trúc có tính chỉ dẫn từng bước (prescriptive), phụ thuộc nhiều vào các bảng tra cứu được tính toán sẵn để đơn giản hóa các phương trình phức tạp. Do đó, những khó khăn mà các kỹ sư thực hành thường gặp phải, chẳng hạn như bố cục rắc rối đòi hỏi phải tra cứu qua lại giữa các mục hay việc sử dụng các bảng tra thay vì cung cấp công thức gốc, không phải là những khiếm khuyết ngẫu nhiên. Chúng là những đặc điểm được kế thừa, một “di sản” từ một thời đại công nghệ và phương pháp luận khác. Việc nhận thức được bối cảnh này giúp người thiết kế tiếp cận tiêu chuẩn một cách hiệu quả hơn, lường trước được những đặc thù trong cấu trúc và logic trình bày của nó.
Tiêu chuẩn này được sử dụng để thiết kế nền cho các loại “nhà và công trình” nói chung, bao gồm các công trình dân dụng (nhà ở, công trình công cộng) và công trình công nghiệp. Đây là văn bản pháp lý chính cho việc tính toán và kiểm tra khả năng chịu lực của nền đất đối với các công trình xây dựng phổ biến.
Việc xác định các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của tiêu chuẩn là cực kỳ quan trọng để tránh áp dụng sai, có thể dẫn đến những sai sót nghiêm trọng trong thiết kế. TCVN 9362:2012 nêu rõ ràng rằng nó không được dùng để thiết kế nền cho các loại công trình sau :
Việc loại trừ một cách rõ ràng “móng cọc” (pile foundations) là một giới hạn định hình nên vai trò thực tế của tiêu chuẩn. Mặc dù tên gọi “Thiết kế nền nhà và công trình” có vẻ bao quát, việc loại bỏ toàn bộ một hạng mục lớn và phổ biến trong ngành địa kỹ thuật như móng cọc đã thu hẹp đáng kể phạm vi chức năng của nó. Trong thực tế xây dựng tại Việt Nam, nơi điều kiện địa chất yếu thường xuyên đòi hỏi các giải pháp móng sâu, móng cọc là một lựa chọn không thể thiếu. Do đó, có thể khẳng định TCVN 9362:2012 thực chất là tiêu chuẩn chuyên biệt cho việc thiết kế móng nông (shallow foundations), bao gồm móng đơn, móng băng và móng bè. Đối với móng cọc, các kỹ sư phải tham chiếu đến các tiêu chuẩn chuyên ngành khác, chẳng hạn như TCVN 10304:2014. Điều này có nghĩa là bước đầu tiên trong quy trình thiết kế nền móng của một kỹ sư tại Việt Nam là phải phân loại được giải pháp móng cần thiết là móng nông hay móng sâu. Quyết định này sẽ xác định liệu TCVN 9362:2012 có phải là tài liệu chỉ dẫn phù hợp hay không, và việc nhấn mạnh “cổng quyết định” này là tối quan trọng để ngăn ngừa việc áp dụng sai tiêu chuẩn ngay từ đầu.
Bảng 1: Phạm vi Áp dụng của TCVN 9362:2012 – Bao gồm và Loại trừ
Dự án Áp dụng (Bao gồm) | Dự án Không Áp dụng (Loại trừ) |
Nhà ở, chung cư thấp và trung tầng sử dụng móng đơn, móng băng, móng bè. | Mố trụ cầu, các công trình thuộc dự án cầu đường. |
Nhà xưởng công nghiệp, nhà kho. | Đường băng, đường lăn sân bay. |
Công trình công cộng (trường học, bệnh viện) có kết cấu móng nông. | Nhà cao tầng, kết cấu nặng sử dụng hệ móng cọc. |
Tường chắn đất (chịu tải trọng tĩnh). | Móng máy, thiết bị công nghiệp gây tải trọng động hoặc rung lắc đáng kể. |
Silo, bể chứa xây dựng trên nền tự nhiên. | Đê, đập và các công trình thủy lợi khác. |
Tiêu chuẩn quy định một cách nghiêm ngặt rằng mọi công tác thiết kế nền móng phải được xây dựng dựa trên sự tổng hợp và phân tích của năm nguồn thông tin cơ bản sau :
Tiêu chuẩn nhấn mạnh một nguyên tắc bất khả xâm phạm: không cho phép thiết kế nền nhà và công trình mà không có hoặc không có đầy đủ các căn cứ địa chất công trình tương ứng. Báo cáo khảo sát địa chất công trình không chỉ là một tài liệu tham khảo mà là nền tảng bắt buộc của quá trình thiết kế. Kết quả khảo sát phải cung cấp đầy đủ dữ liệu cần thiết để giải quyết các vấn đề cốt lõi như: lựa chọn loại nền và móng, xác định chiều sâu chôn móng và kích thước móng, và quyết định có cần áp dụng các biện pháp cải tạo nền đất hay không.
Đây là phần cốt lõi về mặt lý thuyết của báo cáo, giải thích triết lý thiết kế làm nền tảng cho tất cả các tính toán trong tiêu chuẩn.
Triết lý thiết kế theo trạng thái giới hạn (Limit State Design) là phương pháp luận trung tâm của TCVN 9362:2012. Theo đó, mục tiêu của thiết kế là đảm bảo kết cấu nền móng không đạt đến một “trạng thái giới hạn” – tức là một trạng thái mà tại đó nó không còn đáp ứng được các chức năng thiết kế. Tiêu chuẩn định nghĩa hai nhóm trạng thái giới hạn chính cần được kiểm tra.
Trạng thái giới hạn thứ nhất (tương đương Ultimate Limit State – ULS trong các tiêu chuẩn quốc tế) liên quan đến sự phá hoại hoặc mất ổn định của nền. Việc tính toán kiểm tra theo TTGH1 nhằm đảm bảo rằng ứng suất do tải trọng công trình gây ra trong nền đất không vượt quá sức kháng của nó, tức là sức chịu tải của đất nền. Đây là kiểm tra về an toàn chịu lực, ngăn ngừa sự sụp đổ của công trình.
Trạng thái giới hạn thứ hai (tương đương Serviceability Limit State – SLS) liên quan đến điều kiện sử dụng bình thường của công trình. Trạng thái này bị vượt qua khi biến dạng của nền móng (như độ lún, độ lún lệch, độ nghiêng) vượt quá các giá trị cho phép. Các biến dạng quá mức này tuy không gây sụp đổ ngay lập tức nhưng có thể cản trở hoạt động bình thường của công trình, gây nứt tường, vách ngăn, làm hỏng các lớp hoàn thiện, hoặc ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tuổi thọ công trình.
Tiêu chuẩn quy định rằng đối với các nền là đất (không phải đá), việc tính toán theo Trạng thái giới hạn thứ hai (biến dạng) là bắt buộc trong mọi trường hợp. Đây là kiểm tra cơ bản và quan trọng nhất đối với móng nông.
Ngược lại, việc tính toán theo Trạng thái giới hạn thứ nhất (sức chịu tải) chỉ là yêu cầu bắt buộc trong một số trường hợp có rủi ro cao hơn, bao gồm:
Khi cần kiểm tra theo TTGH1, áp lực tính toán (hay sức chịu tải thiết kế) của nền đất, ký hiệu là R, được xác định theo công thức trong tiêu chuẩn. Một dạng tổng quát của công thức này là:
Mỗi thành phần trong công thức trên đều có một ý nghĩa vật lý và kỹ thuật cụ thể :
Giá trị của các hệ số sức chịu tải A, B, D không được tính trực tiếp mà phải được tra từ các bảng trong Phụ lục E của tiêu chuẩn, dựa vào giá trị góc ma sát trong tính toán φII .
Việc tiêu chuẩn yêu cầu người dùng tra cứu các hệ số quan trọng từ bảng mà không cung cấp công thức giải tích gốc là một đặc điểm kế thừa từ thời kỳ tiền máy tính. Cách tiếp cận này tạo ra một số vấn đề trong thực hành hiện đại. Thứ nhất, nó đòi hỏi phép nội suy thủ công khi giá trị góc ma sát nằm giữa các giá trị trong bảng, dẫn đến sai số và thiếu nhất quán. Thứ hai, nó gây khó khăn cho việc tự động hóa quá trình tính toán bằng các công cụ như bảng tính hoặc các đoạn mã lập trình. Các bảng này thực chất được xây dựng dựa trên các lý thuyết sức chịu tải kinh điển (ví dụ như của Terzaghi, Meyerhof, Vesic), và các công thức gốc hoàn toàn có thể được lập trình để tính toán chính xác. Do đó, các kỹ sư hiện đại cần nhận thức được hạn chế này. Một lời khuyên thực tiễn là nên tìm hiểu các công thức lý thuyết nền tảng để xây dựng các công cụ tính toán tự động, giúp tăng độ chính xác, hiệu quả và tính minh bạch của quá trình thiết kế, vượt qua được hạn chế mang tính lịch sử của tiêu chuẩn.
Điều kiện cơ bản và quan trọng nhất khi kiểm tra theo TTGH2 là: biến dạng tính toán của nền S phải nhỏ hơn hoặc bằng biến dạng giới hạn cho phép Sgh.
Tiêu chuẩn yêu cầu xem xét nhiều loại biến dạng khác nhau của hệ kết cấu – nền, bao gồm :
Giá trị biến dạng giới hạn cho phép Sgh không phải là một hằng số mà phụ thuộc vào loại công trình, vật liệu và hệ kết cấu. Các giá trị này được quy định trong Bảng 16 của tiêu chuẩn. Ví dụ, một công trình khung bê tông cốt thép sẽ có giá trị lún lệch cho phép lớn hơn so với một công trình tường gạch chịu lực, vốn rất nhạy cảm với biến dạng không đều.
Độ lún của móng được tính toán bằng phương pháp cộng lún từng lớp (layer-wise summation method), được hướng dẫn chi tiết trong Phụ lục C của tiêu chuẩn. Quy trình này bao gồm các bước chính:
Phần này chuyển hóa lý thuyết thành thực hành, cung cấp một hướng dẫn từng bước và một ví dụ tính toán chi tiết mà các kỹ sư có thể tham khảo.
Dưới đây là một quy trình làm việc logic cho một dự án thiết kế móng nông điển hình theo TCVN 9362:2012.
Phần này trình bày một ví dụ tính toán số cụ thể để minh họa quy trình thiết kế đã nêu.
Thiết kế móng băng bê tông cốt thép cho một dãy tường chịu lực của một công trình nhà ở 5 tầng. Tải trọng và thông tin địa chất được cho như trong bảng dưới đây.
Bảng 2: Ví dụ Minh họa – Thông số Đầu vào
Giả sử chọn sơ bộ bề rộng móng b=1.2 m.
Tra các hệ số sức chịu tải từ Phụ lục E với ϕII=18∘.
Tính toán áp lực tính toán R theo công thức ở Chương 5. Giả sử kết quả tính được R≈280 kPa.
Kiểm tra áp lực sơ bộ: psb=Ntc/b=250/1.2≈208 kPa.
Vì psb<R, kích thước sơ bộ b=1.2 m là hợp lý để tiếp tục kiểm tra lún.
Áp dụng phương pháp cộng lún từng lớp theo Phụ lục C.
Bảng 3: Ví dụ Minh họa - Bảng tính lún (TTGH2)
Lớp i | Độ sâu z (m) | σz (kPa) | Si (mm) | Tổng lún S (mm) |
1 | 0.25 | 195.5 | 10.9 | 10.9 |
2 | 0.75 | 156.0 | 8.7 | 19.6 |
3 | 1.25 | 118.6 | 6.6 | 26.2 |
4 | 1.75 | 89.4 | 5.0 | 31.2 |
… | … | … | … | … |
Tổng | ∼ |
Lưu ý: Bảng trên là minh họa, các giá trị σz cần được tính toán chính xác bằng hệ số phân bố ứng suất.
Giả sử kết quả tính toán chi tiết cho tổng độ lún là S = 45mm (4.5 cm).
Đối với công trình nhà ở có tường chịu lực, tra Bảng 16 của tiêu chuẩn, giả sử giá trị độ lún tuyệt đối giới hạn cho phép là Sgh=10 cm.
So sánh: S=4.5 cm ≤Sgh=10 cm.
Kết luận: Điều kiện về biến dạng được thỏa mãn. Bề rộng móng b=1.2 m là đạt yêu cầu.
Phần này đề cập đến các hướng dẫn cụ thể trong tiêu chuẩn cho các điều kiện nền đất phức tạp thường gặp ở Việt Nam.
Tiêu chuẩn dành một mục riêng để hướng dẫn thiết kế trên các loại đất có tính chất đặc biệt. Đối với mỗi loại, kỹ sư cần nhận diện rủi ro và áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp.
Đây là loại đất có độ rỗng lớn, có thể bị giảm thể tích đột ngột và gây lún đáng kể khi bị thấm ướt lần đầu dưới tải trọng. Rủi ro chính là độ lún ướt (Ss) xảy ra bất ngờ. Tiêu chuẩn yêu cầu phải xác định và tính toán độ lún này, đồng thời xem xét các biện pháp xử lý như làm chặt nền bằng đầm nặng, cọc đất, hoặc tránh để nước thấm vào nền.
Loại đất này chứa các khoáng sét có khả năng hút nước và tăng thể tích (trương nở) khi ẩm, và co ngót khi khô. Rủi ro là sự trồi lên hoặc lún xuống của móng theo chu kỳ ẩm – khô, gây hư hại cho kết cấu. Các giải pháp thiết kế bao gồm chôn móng sâu xuống dưới lớp đất có độ ẩm ổn định, tạo khoảng trống dưới dầm móng, hoặc áp dụng các biện pháp ổn định độ ẩm xung quanh công trình.
Các loại đất này có đặc điểm là sức chịu tải rất thấp, tính nén lún cao và quá trình cố kết diễn ra trong thời gian dài. Thiết kế trên nền đất này đòi hỏi phải kiểm tra ổn định tổng thể (TTGH1) và dự báo độ lún (cả lún tức thời và lún cố kết) một cách cẩn thận. Các biện pháp xử lý nền như bấc thấm, gia tải trước, cọc cát… thường được yêu cầu.
Tiêu chuẩn cũng đề cập đến các loại đất đặc biệt khác như đất nhiễm muối, đất đắp và các yêu cầu thiết kế cho vùng có động đất, mỗi loại đều có những rủi ro và yêu cầu xử lý riêng.
Phần cuối cùng này cung cấp những phân tích và phê bình ở cấp độ chuyên gia, đặt tiêu chuẩn trong một bối cảnh rộng hơn và đưa ra những lời khuyên giá trị cho các kỹ sư thực hành.
Phần này tổng hợp các phân tích của chuyên gia để đưa ra lời khuyên thực tế.
Nhiều chuyên gia và người sử dụng đã chỉ ra rằng bố cục của TCVN 9362:2012 khá phức tạp và gây khó khăn trong quá trình tra cứu. Các quy định cho một phép tính duy nhất có thể nằm rải rác ở nhiều mục không liên tiếp, đòi hỏi người dùng phải lật qua lại giữa các chương. Ví dụ, điều kiện để tính toán theo sức chịu tải được đề cập ở cả mục 4.1.4 và mục 4.7. Để sử dụng hiệu quả, kỹ sư nên tự xây dựng một “lộ trình” tra cứu cho các bài toán phổ biến, ghi chú lại thứ tự các mục cần tham khảo để quá trình thiết kế được mạch lạc.
Một số điều khoản trong tiêu chuẩn có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, quy định “nền phải tính theo: a. trạng thái giới hạn thứ nhất… b. trạng thái giới hạn thứ hai…” có thể được hiểu là “và” (phải tính cả hai) hoặc “hoặc” (chỉ tính một trong hai tùy trường hợp), dẫn đến cách áp dụng khác nhau. Trong những trường hợp như vậy, dựa trên thông lệ quốc tế và nguyên tắc an toàn, kỹ sư nên có xu hướng diễn giải theo hướng an toàn hơn, tức là kiểm tra đầy đủ các điều kiện có liên quan.
Như đã phân tích, các hạn chế của tiêu chuẩn như cấu trúc phức tạp và sự phụ thuộc vào bảng tra là di sản từ quá khứ. Kỹ sư hiện đại không nên bị trói buộc bởi những hạn chế này. Việc chủ động xây dựng các công cụ tính toán tự động (bảng tính Excel, các đoạn mã lập trình) dựa trên các công thức lý thuyết gốc sẽ giúp tăng tốc độ, độ chính xác, và cho phép thực hiện các phân tích nhạy (sensitivity analysis) một cách dễ dàng, điều mà tính toán thủ công không thể làm được.
Một phân tích so sánh đáng chú ý cho thấy sự khác biệt rất lớn về kết quả tính toán sức chịu tải của nền đất giữa TCVN 9362:2012 và TCVN 11823:2017 (tiêu chuẩn thiết kế cầu). Đối với cùng một loại đất, sức chịu tải cho phép tính theo TCVN 9362:2012 có thể lớn hơn từ 2 đến 4 lần so với kết quả tính theo tiêu chuẩn cầu.
Sự chênh lệch khổng lồ này cho thấy một sự thiếu nhất quán trong cách tiếp cận về an toàn và rủi ro trong hệ thống tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam. Nguyên nhân sâu xa nằm ở triết lý an toàn khác biệt: TCVN 9362:2012 sử dụng một hệ số an toàn tổng ktc trong khi TCVN 11823 (dựa trên tiêu chuẩn AASHTO LRFD của Mỹ) sử dụng phương pháp hệ số riêng phần, áp dụng các hệ số giảm cho sức kháng phi_b và hệ số tăng cho tải trọng. Điều này ngụ ý rằng mức độ rủi ro chấp nhận được cho nền móng của một công trình dân dụng được quy định lỏng hơn so với nền móng của một công trình cầu. Sự phân mảnh này cho thấy các lĩnh vực kỹ thuật khác nhau (xây dựng dân dụng và giao thông) đã phát triển các tiêu chuẩn an toàn một cách độc lập. Đây là một bối cảnh quan trọng mà các kỹ sư cần nhận thức, đặc biệt trong các dự án phức hợp, và nó đặt ra câu hỏi về sự cần thiết phải hài hòa hóa các tiêu chuẩn trong tương lai.
Eurocode 7 là hệ thống tiêu chuẩn thiết kế địa kỹ thuật hàng đầu thế giới. So với TCVN 9362:2012, Eurocode 7 có một triết lý thiết kế linh hoạt và toàn diện hơn.
Bảng 4: So sánh các Cách tiếp cận Thiết kế chính: TCVN 9362:2012 và Eurocode 7
TCVN 9362:2012 là một tiêu chuẩn nền tảng, đóng vai trò không thể thiếu trong lĩnh vực thiết kế móng nông tại Việt Nam. Nó cung cấp một bộ khung quy định chặt chẽ, góp phần đảm bảo an toàn cho các công trình xây dựng trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, phân tích cho thấy đây là một tiêu chuẩn đã bộc lộ những hạn chế do nguồn gốc lịch sử, thể hiện qua cấu trúc phức tạp, sự phụ thuộc vào các phương pháp tính toán truyền thống và sự thiếu nhất quán với các tiêu chuẩn quốc gia khác.
Để sử dụng tiêu chuẩn này một cách hiệu quả và an toàn, các kỹ sư cần trang bị không chỉ kiến thức về các công thức mà còn cả sự hiểu biết sâu sắc về bối cảnh, các hạn chế tiềm ẩn và cách khắc phục chúng bằng các công cụ và tư duy thiết kế hiện đại.
Trong tương lai, việc rà soát và cập nhật TCVN 9362:2012 là một yêu cầu cấp thiết. Các phiên bản kế tiếp sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ việc tái cấu trúc lại bố cục cho logic và dễ sử dụng hơn, hài hòa hóa triết lý an toàn với các tiêu chuẩn chuyên ngành khác trong nước, và từng bước tiếp cận với các nguyên tắc thiết kế tiên tiến của các bộ tiêu chuẩn quốc tế như Eurocode 7. Quá trình này sẽ giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính hội nhập của ngành xây dựng Việt Nam.
Một công cụ tương tác để khám phá TCVN 9362:2012. Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu về khảo sát, tính toán, và thiết kế nền cho các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp. Việc hiểu rõ và áp dụng đúng tiêu chuẩn là nền tảng cho sự an toàn và bền vững của mọi công trình.
Nền đất được phân loại dựa trên các đặc tính vật lý và cơ học. Nhấn vào từng loại đất để xem các chỉ tiêu cơ lý quan trọng được quy định trong tiêu chuẩn.
Áp dụng các công thức từ tiêu chuẩn để ước tính nhanh sức chịu tải của nền đất dưới đáy móng đơn. Đây là công cụ tham khảo, không thay thế cho việc tính toán thiết kế chi tiết bởi kỹ sư có chuyên môn.
Sức chịu tải tính toán (R):
– kPa
Công thức (5.7) TCVN 9362:2012
R = m(A.b.γ + B.d.γ’ + D.c)
Thiết kế nền móng phải được kiểm tra theo hai nhóm trạng thái giới hạn để đảm bảo công trình vừa an toàn về chịu lực, vừa ổn định trong quá trình sử dụng.
Tính toán để đảm bảo nền móng không bị phá hoại về cường độ, mất ổn định. Điều này liên quan đến khả năng chịu tải, ổn định trượt, lật… Mục tiêu là đảm bảo công trình không bị sụp đổ.
Tính toán theo biến dạng để đảm bảo công trình hoạt động bình thường. Điều này liên quan đến độ lún, độ lún lệch, độ nghiêng, và các biến dạng khác không vượt quá giới hạn cho phép, tránh gây nứt kết cấu.
Biểu đồ hóa giá trị sức chịu tải tiêu chuẩn (Rtc) của một số loại đất nền theo Bảng G.1 (Phụ lục G). Sử dụng bộ lọc để xem các nhóm đất khác nhau.